Việt Nam, nhà cung ứng đồ gỗ lớn thứ hai ra thị trường thế giới, mới đây thông báo xây dựng hệ thống mã số rừng trồng vào đầu tháng 11/2025. Thông báo này đã khiến nhiều cơ quan phát triển quốc tế quan tâm. Việt Nam thậm chí còn lên kế hoạch cấp và quản lý mã số vùng trồng rừng trên phạm vi cả nước từ năm 2026, theo Quyết định số 2260/QĐ-BNN-LN ngày 9/7/2024.
Mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp
“Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý toàn bộ tài nguyên rừng của Việt Nam. Hiện, Cục Lâm nghiệp cùng VAFS nghiên cứu kinh nghiệm cấp mã vùng trồng cây nông nghiệp để số hóa quy trình cấp mã số cho vùng trồng rừng”, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị khẳng định.
Nhận xét về chính sách này, bà Nguyễn Bích Hằng, đại diện Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) cho rằng khi hệ thống vận hành đồng bộ, Việt Nam có thể chứng minh rõ ràng tính hợp pháp của nguồn gỗ, từ đó mở rộng cơ hội tiếp cận các thị trường cao cấp.
Đồng quan điểm, bà Lê Thu Hương, đại diện Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) nhận xét, Việt Nam xây dựng hệ thống mã số rừng trồng phù hợp với xu hướng toàn cầu về quản lý tài nguyên thiên nhiên là hành động có trách nhiệm. Tại Việt Nam, Sáng kiến Thúc đẩy cam kết đa dạng sinh học (BIODEV2030) đã hỗ trợ kỹ thuật cho ngành lâm nghiệp trong xây dựng và vận hành hệ thống mã số rừng trồng.
Công nghệ số đang từng bước trở thành nền tảng giúp DN Việt Nam truy xuất nguồn gốc và quản lý rừng, một bước tiến quan trọng trong nỗ lực minh bạch hóa chuỗi cung ứng. Khoảng 1.500 cán bộ và DN đang sử dụng WoodID, trên Google Play và App Store, để nhận diện 260 loài, với 3.000 mẫu gỗ của các khu vực châu Phi, châu Á và Nam Mỹ. Đặc biệt, WoodID đã được huấn luyện bằng gần 100.000 hình ảnh mặt cắt gỗ phóng đại, cho phép nhận diện với độ chính xác lên tới 98,6% chỉ trong chưa đầy 1 giây.
Thực tế, việc chứng minh nguồn gốc hơn 800 loài gỗ vào Việt Nam từ 120 quốc gia khiến công tác quản lý và khai báo trở nên phức tạp do tên thương mại trùng lặp hoặc thiếu rõ ràng. “Thách thức lớn nhất không phải là công cụ mà là làm sao mở rộng cơ sở dữ liệu và tích hợp vào quy trình chính thức, để góp phần minh bạch hóa quản lý gỗ hợp pháp tại Việt Nam và trong khuôn khổ quốc tế”, bà Anja Barth, cố vấn trưởng của GIZ Việt Nam, cho biết.
Định vị giá trị thương mại
Ngành lâm nghiệp Việt Nam kỳ vọng việc xây dựng hệ thống mã số rừng trồng sẽ tạo tác động tích cực, từ đó giúp thích ứng với các yêu cầu thương mại của các thị trường nhập khẩu. Bởi, vệc chứng minh là nguồn cung gỗ hợp pháp ra thị trường thế giới chưa bao giờ dễ dàng.
Bà Ashley Amidon, Giám đốc điều hành Hiệp hội Sản phẩm gỗ Quốc tế (IWPA), vào trung tuần tháng 6 đã tới Hà Nội để hỗ trợ DN Việt Nam thích ứng với các yêu cầu thương mại từ phía Hoa Kỳ. Bà chỉ ra một thực tế là người tiêu dùng Hoa Kỳ không đặt nặng vấn đề xuất xứ sản phẩm từ gỗ, điều họ quan tâm là giá cả. Nhưng yếu tố đầu tiên mà cơ quan chức năng của Hoa Kỳ quan tâm là nguồn gốc gỗ, tính minh bạch về nguồn nguyên liệu là điều kiện bắt buộc.
Theo bà Ashley Amidon, thặng dư thương mại cao trong xuất khẩu mặt hàng gỗ vào Hoa Kỳ đã khiến chính phủ nước này mở cuộc điều tra theo Điều 232 của Đạo luật Mở rộng thương mại. Trước mắt, ngành gỗ Việt Nam đang phải đối diện với mức thuế cao và khả năng đồng thời 3 nhóm biện pháp: Thuế đối ứng, điều tra an ninh quốc gia theo Mục 232 và thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (AD/CVD) lên mặt hàng ván ép.
Việt Nam nằm trong nhóm nguồn cung từ châu Á bị xem xét các yếu tố kỹ thuật một cách gắt gao. Các vụ kiện có thể trở thành “vết dầu loang”, bắt đầu từ những những sản phẩm cơ bản, sau lan rộng sang các sản phẩm ít phổ biến hơn nếu DN không chủ động ngăn chặn. Ông Joe O’Donnell, Giám đốc phụ trách Chính phủ và Quan hệ công chúng của IWPA nhận định, việc DN Việt Nam tăng nhập khẩu gỗ cứng từ Hoa Kỳ có thể tạo lợi thế, tác động tích cực lên hồ sơ xuất xứ.
Giải pháp ông Joe đưa ra hoàn toàn hợp lý, bởi Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh cân bằng cán cân thương mại trong ngành, vẫn còn nhiều việc phải làm. Việc cố gắng xây dựng hệ thống truy suất cho thấy ngành gỗ Việt Nam đang nỗ lực thực thi hiệu quả Hiệp định Đối tác Tự nguyện (VPA) với EU và thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực gỗ với Hoa Kỳ, đồng thời tích cực chuẩn bị các bước cần thiết để đáp ứng Quy định Chống phá rừng của EU (EUDR).
Vân Nguyễn