1. Khái quát
1.1 Tổng quan về Quy định phá rừng của EU (EUDR)
Ngày 23/06/2023, EU ban hành Quy định Chống mất rừng (EU Deforestation Regulation – EUDR), đối với nhóm hàng liên quan đến gỗ và sản phẩm gỗ nhằm giảm thiểu những rủi ro liên quan tới mất rừng và suy thoái rừng.
1.2 Mối quan hệ giữa ngành gỗ Việt Nam và thị trường EU
Năm 2022, Việt Nam đã xuất khẩu sang EU gần 700 triệu USD gỗ và các sản phẩm gỗ. Để giữ vững cũng như mở rộng thị trường này, ngành gỗ Việt Nam và hiệp hội nói chung, doanh nghiệp xuất khẩu gỗ nói riêng cần chủ động và tích cực trong việc thực thi các yêu cầu thị trường từ liên minh châu Âu (EU).
2. Yêu cầu của EUDR
2.1 Quy định Chống mất rừng của EU
Theo EUDR, hàng hóa nông-lâm sản và sản phẩm liên quan chỉ được phép lưu thông tại EU khi đảm bảo được yếu tố không làm mất rừng và hợp pháp. Theo đó, sản phẩm được sản xuất trên các diện tích đất liên quan tới mất rừng hoặc suy thoái rừng tính từ thời điểm 31/12/2020 trở về sau sẽ không được phép lưu thông trong EU hay xuất khẩu vào thị trường EU. Đồng thời, sản phẩm được coi là hợp pháp nếu quá trình sản xuất ra sản phẩm đó tuân thủ toàn bộ các yêu cầu liên quan của quốc gia sản xuất:
- Quyền về đất đai
- Quy định về bảo vệ môi trường
- Quy định liên quan tới rừng (bao gồm quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học)
- Quyền của bên thứ ba (quyền cộng đồng)
- Quyền của người lao động, quyền con người theo các công ước quốc tế mà quốc gia đó đã ký kết, nguyên tắc đồng thuận tự nguyện, được thông báo trước và thông tin đầy đủ (FPIC) được đưa ra trong tuyên bố về quyền của người bản địa (của Liên hợp quốc)
- Quy định về thuế, phí, thương mại, hải quan, v.v.
Để chứng minh sản phẩm thỏa mãn cả hai điều kiện trên, doanh nghiệp đưa sản phẩm vào lưu thông tại thị trường EU cần nộp due diligence statement (tạm dịch là Cam kết thẩm định chuỗi cung) kèm theo sản phẩm và sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ thông tin trong văn bản này. Bản cam kết này phải được nộp tới cơ quan quản lý nhập khẩu để đánh giá trước khi sản phẩm này được nhập khẩu vào EU.
Trong khuôn khổ EUDR, cách tiếp cận quản lý dựa trên rủi ro (risk-based management) sẽ được các cơ quan quản lý nhập khẩu của EU áp dụng. Ví dụ, các loại hàng hóa nhập khẩu sẽ được phân loại theo các luồng như xanh (ít rủi ro), vàng (rủi ro an toàn) và đỏ (rủi ro cao), với tần suất và mức độ kiểm tra đối với nhóm hàng hóa rủi ro cao lớn hơn so với nhóm hàng hóa rủi ro thấp. Ngoài các yêu cầu quản lý rủi ro thông thường này, EUDR còn đưa ra quy chế phân loại rủi ro đối với quốc gia hoặc vùng sản xuất (country benchmarking) đối với các quốc gia (hay vùng sản xuất) cung các sản phẩm cho EU và áp dụng các hình thức kiểm soát nhập khẩu với mức độ chặt chẽ tương ứng để giảm thiểu rủi ro. Dựa trên các tiêu chí mà EU đưa ra, các quốc gia /vùng sản xuất sẽ được xếp vào nhóm các quốc gia/vùng ro cao (high), trung bình (standard) hay rủi ro thấp (low).
2.2 Tiêu chí để phân loại rủi ro quốc gia/ vùng sản xuất
30/12/2024, EU sẽ công bố danh sách các quốc gia/vùng theo từng nhóm rủi ro cụ thể nêu trên. Các tiêu chí chính được EU áp dụng để phân loại quốc gia/vùng theo mức độ rủi ro bao gồm:
- Tốc độ mất rừng và suy thoái rừng tại quốc gia/vùng này
- Tốc độ mở rộng diện tích đất nông nghiệp cho các loại sản phẩm liên quan
- Các xu thế sản xuất các sản phẩm liên quan
Ngoài ra, EU cũng có thể quan tâm đến các thông tin đầu vào phục vụ quá trình phân loại quốc gia/vùng sản xuất, bao gồm:
- Thông tin cung cấp bởi cơ quan quản lý từ quốc gia /vùng sản xuất, thông tin từ công ty, từ các tổ chức phi chính phủ, từ bên thứ ba… về nỗ lực giảm phát thải trong nông, lâm nghiệp và các loại hình sử dụng đất, bao gồm Đóng góp quốc gia tự quyết định (Nationally Determined Contribution) trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC)
- Các hiệp định hoặc cơ chế khác mà quốc gia đã ký với EU có liên quan tới khía cạnh nhằm giải quyết nguyên nhân làm mất rừng và suy thoái rừng
- Quốc gia có đang thực hiện Điều 5 Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu (chống mất rừng và suy thoái rừng qua vận hành của thị trường các-bon) hay không
- Mức độ chia sẻ và phổ cập thông tin về các hoạt động thực thi pháp luật, bao gồm cả việc bảo vệ quyền của cộng đồng, quyền người bản địa.
EU sẽ đính kèm với thông báo lý do định thay đổi kết quả của phân loại rủi ro, đề nghị quốc gia phản hồi lại với EU về ý định này và kết quả của việc quốc gia đó được phân loại là rủi ro cao hay thấp. Các quốc gia sẽ có thời gian để phản hồi với EU về kết quả phân loại. Trong trường hợp EU có ý định xếp một quốc gia (vùng) vào nhóm rủi ro cao, quốc gia này có thể cung cấp thông tin về các biện pháp được thực hiện để khắc phục tình hình.
Khi cơ quan thẩm quyền EU xác định DN không tuân thủ quy định của EUDR hay sản phẩm đang được kinh doanh hay xuất khẩu vào thị trường EU không tuân thủ EUDR, cơ quan này sẽ yêu cầu doanh nghiệp hay thương nhân thực hiện ít nhất một trong số những biện pháp khắc phục sau:
- Khắc phục các điểm không tuân thủ, đặc biệt là các điểm về nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm giải trình;
- Ngăn chặn việc đưa sản phẩm ra lưu thông tại thị trường EU;
- Rút lại hoặc thu hồi sản phẩm ngay lập tức;
- Quyên góp sản phẩm cho mục đích từ thiện hoặc công cộng, hoặc nếu điều này không khả thi thì hủy bỏ sản phẩm theo quy định của EU.
Các hành vi vi phạm và không khắc phục vi phạm có thể dẫn tới việc DN phải nộp phạt (tối đa 4% tổng doanh thu của DN trong năm trước đó tại EU), tịch thu tiền và hàng hóa trong giao dịch vi phạm, cấm tham gia trong thời hạn 12 tháng vào các gói mua sắm công hoặc các hoạt động sử dụng ngân sách công, thậm chí là cấm tạm thời không cho phép DN đưa sản phẩm đó vào thị trường EU nếu vi phạm nặng.
2.3 Yêu cầu về vị trí địa lý của mảnh đất canh tác
Điều 2 của EUDR định nghĩa “vị trí địa lý” (geolocation) như sau:
- Vị trí địa lý của một thửa đất được mô tả bằng kinh độ và vĩ độ tương ứng với ít nhất một điểm có kinh độ và vĩ độ sử dụng ít nhất 6 chữ số thập phân.
- Đối với các thửa sản xuất sản phẩm ngoài gia súc có diện tích trên 4 ha, tọa độ địa lý của các điểm thuộc đường đa giác (polygon) mô tả ranh giới thực tế của thửa đất đó cần được cung cấp.
Theo Điều 9 khoản d của EUDR, DN cần thu thập và lưu trữ trong vòng 5 năm các thông tin liên quan đến sản phẩm nhằm chứng minh sản phẩm hợp pháp và không gây mất rừng, đồng thời khai báo với cơ quan thẩm quyền khi được yêu cầu. Trong đó, quy định thông tin đối với nơi sản xuất ra sản phẩm được ban hành như sau:
- Vị trí địa lý của tất cả các thửa đất mà sản phẩm được sản xuất cũng như ngày tháng hoặc khoảng thời gian sản xuất phải được cung cấp. Nếu sản phẩm được sản xuất trên nhiều thửa đất khác nhau, vị trí địa lý của tất cả các thửa đất đó cần được khai báo.
- Nếu quá trình sản xuất sản phẩm tại bất kỳ thửa đất nào gây ra mất rừng, (tính từ thời điểm 31/12/2020), tất cả các sản phẩm được sản xuất trên mảnh đất đó không đủ tiêu chuẩn để lưu thông tại thị trường EU.
3. Thách thức trong việc thực hiện truy xuất nguồn gốc theo yêu cầu của EUDR
3.1 Tính pháp lý của đất canh tác thuộc sở hữu của nông hộ sản xuất chưa rõ ràng
Một đặc điểm chung của ngành gỗ là chuỗi cung có sự tham gia của nhiều nông hộ. Các hộ thường có diện tích canh tác nhỏ, manh mún, chủ yếu là dưới 1 ha. Một hộ có thể có nhiều mảnh đất khác nhau, thậm chí tận dụng trồng cây trên các diện tích gần nhà vốn không được phân loại là đất rừng trồng hoặc đất nông nghiệp thuộc sở hữu của hộ. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ các hộ hiện chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), hoặc nếu có thì chỉ giới đất ghi trên sổ đỏ lại không khớp với thực tế. Điều này có nhiều nguyên nhân như bà con người dân tộc thiểu số canh tác trên thửa đất thuộc sở hữu của gia đình mình từ nhiều đời và không quan tâm đến sổ đỏ, hoặc quá trình đo đạc thửa đất xảy ra sai sót của cán bộ địa phương, hộ tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất, v.v. Hiện tại, các hộ phản ánh việc cấp mới hoặc sửa chữa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất khó khăn, thủ tục phức tạp và kéo dài.
3.2 Chuỗi cung phức tạp, nhiều khâu trung gian
Chuỗi cung của cả ngành hàng hiện nay dài/ phức tạp với nhiều bên tham gia. Tại khâu đầu của chuỗi, nông hộ đóng vai trò chủ đạo với hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu hộ tham gia khâu sản xuất. Mỗi hộ thường có 2-3 mảnh đất canh tác, có hộ có 5-6 mảnh, với nguồn gốc đất của các mảnh đất này có thể khác nhau (ví dụ đất được nhà nước giao, đất hộ tự mua, đất tự khai hoang…). Một số hộ thiếu các bằng chứng pháp lý minh chứng minh mình là chủ thể hợp pháp khi sử dụng các mảnh đất này. Một số mảnh đất được các hộ tự khai hoang, hoặc mua bán theo hình thức phi chính thống. Nguồn gốc đất đai không rõ ràng do thiếu các bằng chứng pháp lý, bao gồm cả việc cơ quan quản lý đất đai ở địa phương thiếu nguồn lực để thực hiện việc đo đạc và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho hộ là các thách thức lớn trong việc chứng minh tính pháp lý của nguồn đất mà hộ sử dụng.
3.3 Khó khăn trong việc nông hộ tiếp cận thông tin về cơ chế, chính sách
Nông hộ tham gia vào chuỗi cung nêu trên thường sống tại các khu vực miền núi nơi tiếp cận với thông tin, bao gồm các yêu cầu về cơ chế chính sách mới thường hạn chế. Thông thường, nguồn thông tin mà hộ được cập nhật được chuyển tải qua kênh của chính quyền địa phương hoặc thương lái thu mua. Tuy nhiên, đối với nhiều hộ các thông tin này không thiết thực. Điều mà hộ quan tâm nhất là sản phẩm mà hộ làm ra có tìm được thị trường đầu ra dễ dàng hay không, và mức giá bán sản phẩm là bao nhiêu. Người mua, trong trường hợp này là hệ thống thương lái, đóng vai trò quan trọng nhất đối với hộ. Đối với thương lái, như đã đề cập ở trên, chất lượng sản phẩm và giá cả là những yếu tố quan trọng nhất.
4. Ứng phó với EUDR
4.1 Vai trò chính quyền trung ương
Bộ NN & PTNT đã tổ chức nhiều cuộc họp với EU và ban hành Khung kế hoạch hành động thích ứng với EUDR. Kế hoạch này nhấn mạnh vào các khía cạnh như tăng cường giám sát các vùng rủi ro cao, chủ động trao đổi với EU, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, rà soát bản đồ thực địa, nâng cao nhận thức…. Trong văn bản gửi UBND các tỉnh, Bộ yêu cầu các tỉnh triển khai Khung kế hoạch này. Hiện nhiều tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai, phân bổ các hoạt động cụ thể cho các cơ quan chuyên môn. Phối hợp chặt chẽ, triển khai các hoạt động liên kết giữa các cơ quan quản lý và các hiệp hội ngành hàng, tuyên truyền, phổ cập thông tin cho các bên liên quan nhằm khuyến khích sự tuân thủ với các yêu cầu của EUDR cũng nằm trong các nội dung trọng tâm của Kế hoạch này.
Để thích ứng tốt với các yêu cầu của EUDR, Bộ NN & PTNT cũng cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành liên quan khác, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường với mục tiêu thống nhất cơ sở dữ liệu về tài nguyên rừng và đất nông/lâm nghiệp. Ngoài ra, các cơ quan quản lý và các hiệp hội ngành hàng cần rà soát, đánh giá chuỗi cung của ngành hàng, thiết kế và thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường chuỗi cung, đặc biệt là về các khía cạnh nguồn gốc và vị trí đất đai, truy xuất nguồn gốc, từ đó chủ động chia sẻ thông tin về thực trạng của chuỗi cung của mặt hàng với EU nhằm giúp EU hiểu rõ hơn về thực trạng của ngành hàng này. Hợp tác công tư được nhấn mạnh trong Khung kế hoạch thích ứng với EUDR. Hợp tác hiệu quả đòi hỏi các cơ quan quản lý duy trì kênh trao đổi thường xuyên với đại diện các ngành hàng nhằm xác định các vấn đề khó khăn của chuỗi trong việc đáp ứng với EUDR, thảo luận và tìm ra giải pháp nhằm giải quyết các khó khăn này.
Để chứng minh Việt Nam không thuộc nhóm có rủi ro cao mất rừng và suy thái rừng, các cơ quan quản lý Việt Nam và đại diện các ngành hàng cần thu thập và tổng hợp thông tin và chia sẻ với EU về các khía cạnh sau:
- Thực trạng quản lý bảo vệ rừng: Bản đồ và số liệu hiện trạng rừng và diễn biễn rừng trong thời gian vừa qua, thực trạng và diễn biến về tình hình sản xuất và xuất khẩu 3 mặt hàng trong thời gian vừa qua. Số hóa bản đồ.
- Các dự án, chương trình quản lý và bảo vệ rừng hiện tại, bao gồm các chương trình như FCPF (Quỹ Đối tác Các-bon trong Lâm nghiệp), Sáng kiến giảm phát thải của Tổ chức tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent) – cơ quan nhận ủy thác của Liên minh giảm phát thải thông quan tăng cường tài chính cho lâm nghiệp (LEAF), Chương trình Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT), thực trạng các chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES), quản lý rừng bền vững (VFCS/PEFC, FSC), Thỏa thuận chung của Việt Nam – Nhật Bản về hợp tác chống biến đổi khí hậu và bảo vệ rừng, v.v. Các thông tin và chương trình này nhằm thể hiện các nỗ lực của Việt Nam trong việc tham gia các công ước và sáng kiến quốc tế với mục tiêu chống mất rừng và giảm phát thải khí nhà kính (Điều 6 Hiệp định Paris về Đóng góp Quốc gia Tự quyết định), bảo tồn đa dạng sinh học, chống biến đổi khí hậu.
- Các chương trình/ dự án các-bon lâm nghiệp tự nguyện, bao gồm các chương trình đang trong giai đoạn thiết kế của tổ chức SK Korea, dự án thí điểm các-bon lâm nghiệp của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam và các chương trình khác nhằm thể hiện nỗ lực bảo tồn, chống mất rừng và giảm phát thải của doanh nghiệp và chính quyền Trung ương và địa phương tại Việt Nam.
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp 2023 tầm nhìn 2050, tập trung vào bảo vệ rừng tự nhiên, thúc đẩy quản lý rừng bền vững, trồng rừng gỗ lớn có chứng chỉ, phát triển liên kết giữa công ty – nông hộ nhằm đơn giản chuỗi cung.
- Các đề án, chính sách, chiến lược có liên quan đã, đang và sẽ được thực hiện để cải thiện tình trạng mất rừng và suy thoái rừng trong quá khứ (ví dụ như Đề án phát triển rừng gỗ lớn, Đề án Quản lý /phát triển rừng bền vững) v.v.
Trên cơ sở các thông tin này, chính phủ tăng cường đối thoại với EU theo hướng thuyết phục EU xếp Việt Nam vào nhóm rủi ro trung bình hoặc thấp. Trong trường hợp bất lợi và Việt Nam có nguy cơ bị phân loại rủi ro cao, chính phủ có thể thuyết phục EU xem xét các phương án sau để giảm thiểu khả năng tác động tiêu cực lên toàn ngành:
- Kiến nghị EU phân loại rủi ro theo vùng (không theo quốc gia) để bảo toàn các vùng sản xuất đã ổn định, không có hoặc ít có rủi ro mất rừng.
- Kiến nghị EU cân nhắc phân loại rủi ro theo mặt hàng cụ thể (có liên hệ đến các vùng sản xuất chính), không gộp chung các mặt hàng do gỗ có động lực phát triển khác nhau.
Chính phủ cần gấp rút chỉ đạo các Bộ, ban ngành chức năng phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội để rà soát và báo cáo chi tiết về các thông tin cần thiết để tiến hành đối thoại với EU. Một số hoạt động cụ thể bao gồm:
- Thu thập thông tin về chuỗi cung ngành gỗ xác định các vùng rủi ro mất rừng, liên hệ với hoạt động sản xuất và các xu hướng thị trường trong tương lai; đề ra kế hoạch chi tiết (theo lộ trình) để xử lý các tồn tại của chuỗi cung hiện tại.
- Chuẩn bị đầy đủ các thông tin nền để đối thoại với EU (như nêu trên).
- Xác định các khía cạnh rủi ro mất rừng liên quan đến hoạt động sản xuất, từ đó xây dựng kế hoạch xác định các vùng rủi ro thấp/trung bình/ cao, đồng thời đưa ra các biện pháp (theo lộ trình) để chuyển các vùng rủi ro cao thành thấp trong tương lai.
- Yêu cầu sự tham gia của tất cả các bên liên quan, như Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, UBND các tỉnh thành, doanh nghiệp và hiệp hội ngành gỗ.
- Chính phủ thành lập Nhóm công tác chuyên trách việc chuẩn bị thông tin và tiến hành đối thoại với EU với sự tham gia đầy đủ của đại diện các bên liên quan.
4.2 Vai trò của doanh nghiệp và hiệp hội
Trước khi đưa sản phẩm vào lưu thông tại thị trường EU DN cần nộp bản due diligence statement (tạm dịch là Cam kết thẩm định chuỗi cung – gọi tắt là “Cam kết”) và sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ thông tin trong Cam kết này. Để cung cấp thông tin trong Cam kết, DN cần thực hiện 3 bước: thu thập thông tin – đánh giá rủi ro – giảm thiểu rủi ro, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ báo cáo khi cần.
Bước 1. Thu thập thông tin. Thông tin DN cần thu thập bao gồm các khía cạnh về toàn bộ chuỗi cung ứng. Cụ thể:
Mô tả về sản phẩm, tên loài/ tên khoa học (đối với sản phẩm gỗ);
- Lượng và đơn vị tính của sản phẩm;
- Quốc gia và vùng (nếu có thể) sản xuất;
- Thời gian sản xuất cũng như tọa độ (coordinates) xác định vị trí địa lý (geolocation) của thửa đất sử dụng để sản xuất ra sản phẩm nhằm chứng minh sản phẩm không làm mất rừng hay suy thoái rừng. Đối với các thửa đất có diện tích trên 4 ha, DN cần thu thập tọa độ địa lý của các điểm thuộc đường đa giác (polygon) mô tả ranh giới thực tế của thửa đất đó. EU khuyến khích sử dụng các dữ liệu và dịch vụ không gian cung cấp trong khuôn khổ Chương trình vũ trụ của EU (EGNOS/Galileo and Copernicus).
- Tên, địa chỉ, email của các cá nhân, đơn vị đã cung cấp sản phẩm đó cho DN;
- Tên, địa chỉ, email của các cá nhân, đơn vị đã được DN cung cấp sản phẩm đó;
- Các bằng chứng khác chứng minh rằng sản phẩm không gây mất rừng;
- Các bằng chứng khác chứng minh rằng sản phẩm được sản xuất theo quy định của pháp luật, bao gồm quyền sử dụng đất để sản xuất sản phẩm này.
Bước 2. Đánh giá rủi ro. Dựa trên thông tin thu thập tại bước 1, DN cần đánh giá rủi ro trong các hoạt động của chuỗi. Tiêu chí để đánh giá rủi ro có thể bao gồm một số yếu tố như sau:
- Kết quả phân loại rủi ro của quốc gia hay vùng sản xuất (country benchmarking) thuộc quốc gia đó được EU công bố (phân loại rủi ro cao, thấp, trung bình)
- Thực trạng tài nguyên rừng của quốc gia/ vùng sản xuất
- Tính phức tạp của chuỗi cung và các khâu trong chuỗi, đặc biệt khó khăn trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm tới tận thửa đất
- Mức độ phổ biến của tình trạng mất rừng và suy thoái rừng tại quốc gia (vùng) sản xuất
- Quyền của của người bản địa về nơi sản phẩm được sản xuất dựa trên thông tin, bằng chứng có thể kiểm chứng
- Các lo ngại về quốc gia (vùng) sản xuất và nguồn gốc xuất xứ về mức độ tham nhũng, tài liệu giả, thực thi luật pháp yếu, vi phạm trong thực hiện các công ước…
- Các quan ngại từ bên thứ ba
Bước 3. Giảm thiểu rủi ro. Để giảm thiểu rủi ro, DN có thể áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có:
- Yêu cầu nhà cung cấp bổ sung thông tin, số liệu, các bằng chứng
- Thực hiện kiểm tra, đánh giá độc lập chuỗi cung ứng
- Áp dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro chặt chẽ hơn
Bản Cam kết thẩm định chuỗi cung cần trình bày đầy đủ các thông tin trong 3 bước nêu trên. Mặt khác EUDR yêu cầu các DN không thuộc diện vừa và nhỏ (SME) phải báo cáo công khai hàng năm về hệ thống trách nhiệm giải trình và các công việc đã làm để hoàn thành trách nhiệm này.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam cần gấp rút nghiên cứu và chuẩn bị kỹ càng nhằm đáp ứng đầy đủ với các yêu cầu của EUDR. Đáp ứng tốt EUDR cũng sẽ giúp các DN đáp ứng với các yêu cầu tương tự tại các thị trường xuất khẩu khác trong tương lai.
Các DN và hiệp hội cũng cần tích cực, chủ động phối hợp với Chính phủ và các ban ngành trong quá trình 18 tháng (hoặc 24 tháng) chuẩn bị trước khi EU chính thức triển khai EUDR vào tháng 12/2024 hoặc tháng 6/2025 tùy theo quy mô doanh nghiệp nhập khẩu vào EU. Một số hành động mà doanh nghiệp, hiệp hội cần tiến hành càng sớm càng tốt bao gồm:
- Chủ động đánh giá toàn bộ chuỗi cung của ngành mình nhằm cung cấp thông tin cho các bên liên quan bao gồm cả EU, nhà nhập khẩu EU và các tổ chức quốc tế.
- Các hiệp hội chủ trì việc xây dựng các báo cáo tổng quan của ngành, thu thập thông tin về thực trạng sản xuất, các vùng nguyên liệu, chuỗi cung ứng, v.v. Chia sẻ các báo cáo này với các bên liên quan, bao gồm người mua hàng của mình và EU để các bên có thể có những đánh giá khách quan về thực trạng của ngành cũng như những rủi ro về mất rừng liên quan đến các hoạt động sản xuất và kinh doanh của ngành.
- Hiệp hội phối hợp với các ban ngành liên quan, như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên môi trường, UBND cấp tỉnh thành và các cơ quan quản lý cấp địa phương để thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin về quy định mới trong EUDR, triển khai tập huấn cho doanh nghiệp và nông hộ về các yêu cầu trong quy định này.
- Các DN cần tích cực rà soát, đánh giá lại chuỗi cung hiện tại của mình, xác định các rủi ro liên quan tới chuỗi và thực hiện trước các biện pháp giảm thiểu rủi ro theo khuyến nghị trong EUDR:
o Rà soát toàn bộ các bên tham gia chuỗi cung, từ hộ, hệ thống thương lái, các cơ sở chế biến; tổng hợp và lưu trữ toàn bộ thông tin về hộ tham gia chuỗi và các đại lý, bên liên quan, thu thập thông tin chi tiết tới từng thửa đất của nông hộ.
o Đánh giá hệ thống nhà cung cấp (đại lý), bao gồm đầu vào và đầu ra, cơ sở dữ liệu lưu trữ, hệ thống quản lý thông tin.
o Xác định các hoạt động cần thiết và xây dựng lộ trình thực hiện để đáp ứng các yêu cầu của EUDR, bắt đầu từ các diện tích/ chuỗi cung có chứng chỉ, sau đó mở rộng sang các diện tích khác.
o Chủ động phối hợp với các hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin nhằm chuẩn bị đối thoại với EU khi cần.
Mặt khác, việc hình thành vùng nguyên liệu bền vững và xây dựng liên kết giữa công ty và hộ cần đảm bảo lợi ích kinh tế mà hộ thu được từ các sản phẩm có chứng chỉ bù đắp thỏa đáng cho phần chí phí đầu vào của hộ, đặc biệt là chi phí về lao động. Là một trong những bên chủ chốt tham gia chuỗi cung, DN cần hỗ trợ các hộ trong việc tham gia các hoạt động sản xuất sản phẩm bền vững, có chứng chỉ. Chính quyền cũng nên có những cơ chế chính sách, khuyến khích nông hộ và DN tham gia cá hoạt động này. Các hoạt động khuyến khích này có thể thông qua việc Chính quyền tích cực tham gia, giải quyết các tồn tại về đất đai, xác định mối liên kết giữa rủi ro về mất rừng và hoạt động sản xuất của hộ và DN.
Các nông hộ cần được tập huấn nâng cao nhận thức về tính hợp pháp của nông-lâm sản nói chung và quy định mới trong EUDR nói riêng để hộ ý thức được tầm quan trọng của việc truy xuất nguồn gốc, qua đó tích cực và chủ động thực hiện các hành động cần thiết để tăng cường tính minh bạch đối với nguồn gốc sản phẩm và giảm thiểu rủi ro trong chuỗi cung ứng. Mạng lưới tư thương với vai trò là cầu nối giữa hàng triệu hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu lớn cần được tham gia vào các hoạt động xây dựng năng lực, tuyên truyền, phổ biến thông tin về EUDR để hiểu và nắm rõ về các quy định mới phát sinh nhằm thu thập đủ và đúng các thông tin cần thiết để truy xuất nguồn gốc nông sản.
5. Kết luận
Các DN cần chủ động rà soát chuỗi cung ứng hiện tại của mình, xác định các rủi ro và từ đó đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro này. Đối với chuỗi cung của mình, các DN cần phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan trong chuỗi, đặc biệt là mạng lưới tư thương, các nông hộ những người cung nguyên liệu đầu vào cho DN, nhằm đáp ứng với các yêu cầu của EUDR, bao gồm yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, về vị trí của thửa đất sản xuất. Các DN xuất khẩu cần chủ động hợp tác với các DN nhập khẩu của EU, nhằm nắm bắt đầu đủ các yêu cầu về EUDR, tìm kiếm nguồn lực từ các DN nhập khẩu này nhằm thay đổi, điều chỉnh chuỗi cung hiện tại của mình nhằm đáp ứng chặt chẽ các yêu cầu của EUDR. Các DN nên ưu tiên cho việc xây dựng các chuỗi cung nguyên liệu có chứng chỉ bền vững. Chuỗi cung này giúp DN đáp ứng được các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Các hiệp hội ngành hàng này và DN cần chủ động đánh giá toàn bộ chuỗi cung của ngành mình nhằm cung cấp thông tin cho các bên liên quan bao gồm cả EU và nhà nhập khẩu từ EU. Các hiệp hội có thể chủ trì việc xây dựng các báo cáo tổng quan về ngành để cung cấp thông tin về thực trạng sản xuất, các vùng nguyên liệu, chuỗi cung ứng, mối liên kết trong khâu sản xuất với nguồn tài nguyên rừng v.v. và chia sẻ thông tin rộng rãi với các bên liên quan để các bên cập nhật được các thông tin khách quan về ngành, bao gồm cả những rủi ro liên quan tới mất rừng. Các hiệp hội cần tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng để tập huấn, tuyên truyền thông tin về các yêu cầu EUDR đến các DN, tới đội ngũ thương lái và nông hộ sản xuất tham gia chuỗi.
6. Bài viết được tổng hợp và tham khảo từ Tạp chí Gỗ Việt/các bản tin của FOREST-TRENDS
- Chuẩn bị để thích ứng với quy định chống mất rừng của EU: Vai trò của nhà nước trong phân loại rủi ro với Quốc gia/ vùng sản xuất
- Chuẩn bị để thích ứng với Quy định chống mất rừng của EU – Vai trò của Hiệp hội và Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
- Chuẩn bị để thích ứng với Quy định chống mất rừng của EU – Đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc nông lâm sản
Hoặc DN có thể tham khảo các tài liệu từ HỘI NGHỊ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG THÍCH ỨNG VỚI QUY ĐỊNH CHỐNG PHÁ RỪNG CỦA EU (03/11/2023)