Kinh tế tái tạo là cấp độ mới của kinh tế tuần hoàn. Đây là một mô hình phát triển kinh tế lấy cảm hứng từ tự nhiên, hướng đến việc không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực mà còn phục hồi và làm giàu thêm cho các hệ sinh thái, cộng đồng và nguồn lực xã hội.
Từ kinh tế xanh tuần hoàn đến kinh tế tái tạo
Khác với kinh tế tuyến tính (khai thác – sản xuất – tiêu dùng – thải bỏ) và cả kinh tế tuần hoàn (tái chế, tái sử dụng), kinh tế tái tạo tập trung tạo ra giá trị bền vững: Nuôi dưỡng đất đai, bảo vệ đa dạng sinh học, nâng cao phúc lợi con người và khôi phục sự cân bằng của tự nhiên. Đây là bước tiến cao hơn giúp nền kinh tế gắn liền với khả năng tái sinh và phát triển hài hòa cùng Trái đất. Kinh tế tái tạo không chỉ là xu hướng mà đang trở thành định hướng phát triển tất yếu. Từ nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng, đô thị, kiến trúc… cho đến kinh doanh, kinh tế tái tạo mở ra cơ hội tạo giá trị lâu dài, giúp con người phát triển hài hòa cùng hành tinh. Tại California (Hoa Kỳ), Chính phủ khuyến khích phát triển mô hình nông trại tái tạo và tài chính tác động (impact investing). Nhiều quỹ đầu tư đã đổ vốn vào các dự án phục hồi đất, năng lượng tái tạo và công nghệ carbon âm.
Tương tự, Chính phủ Hà Lan cũng đang áp dụng mô hình nông nghiệp tuần hoàn – tái tạo trong ngành nông sản xuất khẩu, phát triển hệ thống nhà kính tái sử dụng nước, năng lượng tái tạo và tái chế phụ phẩm nông nghiệp. Hay Costa Rica, quốc gia nổi tiếng với chính sách trả tiền dịch vụ hệ sinh thái cho nông dân và cộng đồng tham gia bảo vệ rừng, đồng thời phát triển du lịch sinh thái và năng lượng tái tạo, giúp độ che phủ rừng tăng trở lại hơn 50%.
Nếu Việt Nam khởi động chiến lược quốc gia về kinh tế tái tạo tích hợp tín chỉ carbon và duy trì đa dạng sinh học, chúng ta có cơ hội trở thành thương hiệu dẫn dắt tại Đông Nam Á.
Quỹ đầu tư thông minh đồng hành cùng doanh nhân
Có thể tham khảo từ mô hình Regenerative Manufacturing của EDB (Economic Development Board – Cơ quan Phát triển Kinh tế Singapore). Đây là mô hình sản xuất mới đặt trọng tâm vào thiết kế và trí tuệ nhân tạo để tối ưu toàn bộ vòng đời sản phẩm. Mô hình này hướng tới tạo ra tác động tích cực: Giảm phát thải, tiết kiệm tài nguyên, gia tăng khả năng thích ứng của chuỗi cung ứng.

Để có thể triển khai mô hình này, Việt Nam cần có những quỹ đầu tư công thông minh đồng hành cùng tư nhân trong các lĩnh vực mũi nhọn hạ tầng số, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo… Đồng thời, thành lập Trung tâm Điều hành Đô thị và Khí hậu (UDCC) tại các đô thị lớn để giám sát năng lượng, khí thải, nước, giao thông theo thời gian thực.
Điều quan trọng hơn cả là khai phóng tư duy, cổ vũ DN dám thử nghiệm, dám đổi mới. Việt Nam cần một “Khoán 10 mới” cho kinh tế số và đổi mới sáng tạo, thay vì tư duy “không quản được thì cấm”. Ban hành Bộ Quy tắc phục vụ DN trong khu vực công theo nguyên tắc Nhà nước chuyển từ “quản lý – cấp phép” sang “đồng kiến tạo – hậu kiểm minh bạch”.
Chuyển từ làm thuê sang làm chủ
Nền kinh tế có động lực đổi mới, sáng tạo hay không phụ thuộc vào mức độ liên kết và hình thành liên kết giữa 4 đối tượng: Nhà nước – nhà trường – DN – đội ngũ khởi nghiệp. Nhà nước cần thành lập Hội đồng Đổi mới sáng tạo vùng (Bắc – Trung – Nam), liên kết mật thiết, cùng khởi động Chương trình quốc gia về doanh nhân trẻ toàn cầu. Mỗi năm đưa hàng nghìn startup/SME Việt ra thị trường Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Singapore, kết nối vốn quốc tế. Chương trình này phù hợp với định hướng Go-Global của Nghị quyết 68.
Mối liên kết quan trọng khác là hình thành những hệ sinh thái ngành và giữa các ngành liên quan. Vài năm trở lại đây, Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (SACA) và HAWA đã nỗ lực thúc đẩy các kết nối giữa DN ngành xây dựng, thiết kế và sản xuất nội thất. Hệ sinh thái này mang đến lợi ích cộng hưởng rất lớn, tăng thêm giá trị cho DN ngành xây dựng, lựa chọn cho khách hàng và tạo điều kiện cho DN nội thất tiếp cận người dùng trong nước. Ở phía thị trường xuất khẩu, việc liên kết tốt giữa xây dựng – nội thất giúp Việt Nam hướng đến xuất khẩu không gian trọn gói, một giá trị gia tăng rất đáng chú ý.
Một khi đã có khả năng cung ứng đa dạng, DN Việt có cơ hội được tham gia thực chất vào chuỗi cung ứng toàn cầu thay vì chỉ làm gia công, chuyển đổi từ làm thuê sang làm chủ. Do vậy, việc thu hút FDI phải đi kèm chuyển giao công nghệ và liên kết với DN nội địa để FDI trở thành bệ phóng cho khu vực tư nhân thay vì tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa DN nội và ngoại.
Cuối cùng, cần luật hóa quyền sở hữu, quyền cạnh tranh bình đẳng và tự do kinh doanh. Điều này không chỉ mang ý nghĩa chính trị mà còn giúp Việt Nam tránh rủi ro chiến tranh thương mại, giảm nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá, giúp DN tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đinh Hồng Kỳ – Chủ tịch Công ty Secoin, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (SACA)
H. Anh ghi