* Ông đánh giá thế nào vị thế của Việt Nam so với khu vực?
– Việt Nam có nhiều thuận lợi mang tính chiến lược. Đầu tiên chúng ta có sự ủng hộ mạnh mẽ của hệ thống chính trị, chủ trương của Đảng đưa Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thứ hai, có nhiều đổi mới về thể chế, chính sách. Thứ ba, chúng ta tận dụng được các chính sách ngoại giao đa phương. Đặc biệt, các hiệp định thương mại tự do FTA chính là bàn đạp vững chắc cho thương mại Việt Nam trên trường quốc tế.

Riêng về logistics, Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi trong ASEAN, cùng với chính trị ổn định và tính năng động của Chính phủ. Hệ thống logistics ngày càng hiện đại và hiệu quả. Tân Cảng Sài Gòn (TCSG) sau hơn 36 năm hình thành và phát triển đã trở thành nhà khai thác cảng hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Chúng tôi đang xếp thứ 17 trong nhóm 20 cụm cảng container có sản lượng thông quan lớn nhất thế giới.
* Dù có nhiều lợi thế nhưng các DN logistics Việt Nam đã thực sự nổi bật khi đặt trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt?
– Thách thức lớn nhất là hầu hết các DN logistics Việt Nam cơ bản vẫn là nhỏ và vừa (SME). Ngày xưa DN thường vận hành theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, thiếu liên kết rất khó để mở rộng quy mô. Tuy nhiên ngày nay là “cá nhanh thắng cá chậm”. Tôi tin tưởng với trí tuệ con người Việt Nam, các DN logistics hoàn toàn có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.
Áp lực không nhỏ khác là yêu cầu mới của thị trường toàn cầu. Ví dụ các chính sách thuế đối ứng đang đặt ra thách thức về chi phí và gần đây các thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ còn kiểm tra thêm về bảo hộ và truy xuất nguồn gốc. Ngành gỗ là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực sẽ phải chịu nhiều tác động.
* Đối diện với các thách thức, theo ông DN cần theo đuổi những giải pháp nào?
– Xanh hóa và phát triển bền vững đã trở thành nhu cầu cấp thiết, đồng thời tối ưu hóa chi phí cho DN. Càng sớm chuyển đổi, DN càng có nhiều lợi thế. Hiện chúng tôi đã hoàn thiện chuỗi cung ứng logistics xanh. Hàng loạt sáng kiến phát triển cảng xanh đã được triển khai, điển hình là việc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo. Chúng tôi đầu tư các phương tiện vận chuyển thân thiện với môi trường như xe điện. Đặc biệt, việc sử dụng sà lan vận chuyển giúp giảm 70% khí thải so với vận tải đường bộ. Trong tương lai, TCSG còn định hướng tham gia vào các tuyến dịch vụ hàng hải xanh quốc tế (Green Shipping Corridor).
Song song đó, chúng tôi đã chuyển đổi số từ 2008 đến nay bằng hệ sinh thái e-SNP toàn diện với các nền tảng như ePort, eDO, eLog, Eoffice… giúp thực hiện thủ tục trực tuyến 24/7. Chúng tôi cũng tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hệ thống eWMS (quản lý kho) và văn phòng điện tử eOffice.
* Nỗ lực chuyển đổi số đã mang lại kết quả cụ thể nào?
– Hiệu quả rất rõ rệt. Trước đây, cảng Tân cảng Cát Lái được thiết kế với công suất 3 triệu TEU container, nhờ vào chuyển đổi số sản lượng thông quan ngày nay đã đạt 6 triệu TEU.
Tính đến 8 tháng đầu năm 2025, sản lượng container thông qua toàn hệ thống TCSG đạt 7,5 triệu TEU, tăng 4,5% so với cùng kỳ. Hiện TCSG nắm giữ khoảng 55% thị phần xuất nhập khẩu của cả nước bằng container. Chúng tôi cũng đã được ghi nhận với hai giải thưởng Cảng Xanh của cộng đồng cảng biển châu Á – Thái Bình Dương.
* Trong bối cảnh DN đối mặt với nhiều khó khăn, ngành logistics có thể hỗ trợ thế nào cho mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam?
– Ngành logistics đóng vai trò quan trọng trong chuỗi mắt xích đưa hàng hóa Việt Nam vươn xa. Chúng tôi trực tiếp tạo ra lợi thế cạnh tranh về thời gian. Điển hình là việc khai trương tuyến nhanh SSX của hãng tàu Shanghai JinJang cập tại Tân Cảng Hiệp Phước (cơ sở cảng trực thuộc Tân Cảng Sài Gòn). Hải trình này rút ngắn thời gian vận chuyển Việt Nam – Hoa Kỳ từ 22 ngày xuống 17 ngày, trở thành tuyến tốc hành nhanh nhất đến Hoa Kỳ hiện nay.
Chúng tôi cũng đang tiên phong xây dựng hệ sinh thái e-SNP đồng thời chung tay cùng các cơ quan quản lý xây dựng cổng “Một cửa quốc gia” và hội nhập thủ tục hàng hải “Một cửa ASEAN”.Qua đó có thể cắt giảm chi phí và thời gian cho Khách hàng, Hãng tàu và các bên liên quan trong chuỗi cung ứng.
* Theo ông những yếu tố cần thiết nào có thể tạo bệ đỡ cho DN?
– Chính phủ cần tạo bệ đỡ vững chắc với hệ thống logistics thông thoáng, thuận lợi. DN cần có những đòn bẩy tài chính và quỹ đổi mới sáng tạo. Quan trọng nhất là sự đoàn kết của cộng đồng DN, không chỉ trong ngành mà trong toàn nền kinh tế nhằm tránh việc cạnh tranh không lành mạnh.
Để làm được điều đó cần tổ chức các diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng mối đoàn kết trong cộng đồng DN. Chúng ta phải tăng cường hợp tác giữa các hiệp hội cảng biển, hiệp hội logistics, các hiệp hội ngành nghề và các tổ chức liên quan. Khi DN “tay trong tay”, những khó khăn gặp phải sẽ có sự chung tay vượt qua và cùng phát triển.
Nguyễn Trang thực hiện